Sau 05 năm triển khai thực hiện Kết luận 119-KL/TW, nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, đơn vị và toàn xã hội về công tác dân số kế hoạch hóa gia đình được nâng lên, đội ngũ làm công tác dân số tại địa phương nhiệt tình, thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng tốt cho công tác tuyên truyền, vận động. Nhận thức về công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình được lan toả trong nhân dân, kể cả những vùng có đạo, những dòng họ bị ngự trị bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ, những vùng mặt bằng dân trí còn thấp. Nhằm đưa công tác dân số kế hoạch hóa gia đình thực sự hiệu quả, bền vững đạt được kết quả quan trọng, cơ bản đạt được các mục tiêu đã đề ra. Dân số của huyện từ 111.041 người vào năm 2016 tăng lên 116.682 người vào năm 2020 (nguồn cơ sở dữ liệu dân cư). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 0,99% năm 2016 giảm xuống còn 0,8% năm 2020. Tỷ suất sinh từ 14,15% vào năm 2016 giảm xuống còn 12,57% năm 2020, bình quân hàng năm giảm 0,3% . Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại từ 75,47 % năm 2016 tăng lên 75,58 % năm 2020.
Có thể thấy rằng từ việc xem công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của từng gia đình thì nay đã nhận thức được rằng công tác này liên quan đến toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, có quan hệ mật thiết đến việc xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh và tiến bộ của từng cá nhân, từng gia đình và của toàn xã hội. Đầu tư cho công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao.
Quan tâm tạo điều kiện đầu tư kinh phí thực hiện chương trình nâng cao chất lượng dân số tại địa phương. Các mô hình truyền thông nâng cao chất lượng dân số được triển khai, kết hợp xây dựng các mô hình điểm, các câu lạc bộ thực hiện chính sách Dân số - kế hoạch hóa gia đình như: Câu lạc bộ phụ nữ không sinh con thứ 3, câu lạc bộ tiền hôn nhân... được duy trì thực hiện và đã đạt được những kết quả nhất định.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, các cán bộ làm công tác dân số của huyện đã có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng và phát triển các loại mô hình truyền thông phù hợp với từng nhóm đối tượng như mô hình câu lạc bộ dân số và phát triển; câu lạc bộ tiền hôn nhân (Xã Hàm Kiệm 03 câu lạc bộ, thị trấn Thuận Nam 07 câu lạc bộ); đặc biệt, mô hình thôn, khu phố không có người sinh con thứ 3 trở lên (56/56 thôn, khu phố đăng ký).
Tuy nhiên bên cạnh đó còn những hạn chế do tình hình sáp nhập Trung tâm Dân số - kế hoạch hóa gia đình vào Trung tâm Y tế huyện tư tưởng của đội ngũ làm công tác dân số các cấp hỗ trợ việc thực hiện chính sách dân số bị thu hẹp tác động đến triển khai thực hiện; sự chỉ đạo, phối hợp giữa các cơ quan, đoàn thể tại một số xã chưa sâu sát; đội ngũ cộng tác viên dân số luôn biến động, ý thức chấp hành pháp luật của một số thanh thiếu niên còn hạn chế, nhận thức của một bộ phận Nhân dân còn mang nặng tư tưởng phải sinh có con trai, hoặc phải có con gái,…tình trạng tảo hôn vẫn còn xảy ra, tỷ suất sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên còn cao đã ảnh hưởng rất lớn đến việc duy trì mức sinh thay thế. Kiến thức và kỹ năng sống của các thanh niên, vị thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, hôn nhân và gia đình còn nhiều hạn chế.
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu kém trên đây là do một số cấp ủy, chính quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác dân số đối với phát triển kinh tế - xã hội; trong nhận thức và hành động còn nặng về công tác kế hoạch hóa gia đình, tư duy về dân số và phát triển còn hạn chế, nguồn lực cho hoạt động dân số, kế hoạch hóa gia đình còn hạn hẹp, tổ chức bộ máy thiếu ổn định
Trong thời gian tới, Ban Thường vụ Huyện ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội huyện các cơ quan, đơn vị tiếp tục thực hiện tốt một số nội dung sau:
Tiếp tục thực hiện Kết luận 119-KL/TW ngày 04/01/2016; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XII). Kế hoạch số 112-KH/HU, ngày 28/02/2018 của Huyện ủy và thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) và các Nghị quyết, Chương trình, Kế hoạch có liên quan.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục về dân số - sức khoẻ sinh sản với nhiều hình thức phong phú, đa dạng phù hợp với tình hình, trình độ, nhận thức của các tầng lớp nhân dân nhằm tạo chuyển biến nhận thức của toàn xã hội về công tác dân số trong thời kỳ mới.
Tiếp tục củng cố, kiện toàn đội ngũ làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình từ huyện đến cơ sở phù hợp với sự chuyển hướng chính sách: Từ dân số - kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình với các nội dung và hình thức phù hợp trong chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng có thai ngoài ý muốn, giảm mạnh tỷ lệ nạo, hút thai, đặc biệt là ở người chưa thành niên góp phần nâng cao chất lượng dân số; đồng thời, tiếp tục duy trì và nhân rộng các đề án, mô hình nâng cao chất lượng dân số đã được triển khai.
Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia công tác dân số, tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn thể cộng đồng tự nguyện và chủ động tham gia công tác dân số. Tăng cường giám sát việc thi hành nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích và nghĩa vụ hợp pháp của công dân đồng thời nghiêm túc xử lý các trường hợp vi phạm chính sách Dân số – kế hoạch hóa gia đình./.